Tây vương Trịnh Tạc Trịnh_Tạc

Huynh đệ tương tàn

Ngày 28 tháng 5 năm 1657, Trịnh Tráng qua đời, Trịnh Tạc lên thay. Vì Trịnh Toàn ở Nghệ An được nhiều người tín phục, chúa Trịnh Tạc đem lòng ngờ vực, ghen ghét. Trịnh Tạc sai con trưởng là Phú quận công Trịnh Căn ra Nghệ An giả tiếng giúp Trịnh Toàn nhưng thực chất là để giám sát; lại sai con thứ là Thọ quận công Trịnh Lệ, Vũ quận công Trịnh Đống, cùng bọn Phan Hưng Tạo, Trần Văn Tuyển, Phùng Viết Thu làm đốc thị, các quân đều tiến qua phía nam sông Lam. Trịnh Toàn thấy Trịnh Căn đến, cảm thấy lo lắng nên lui quân về An Trường, Trịnh Căn thì đóng quân ở Phù Long[2][5].

Trịnh Tạc sai sứ đến trách cứ Trịnh Toàn về việc cha chết mà không về để tang, rồi triệu về kinh. Thủ hạ của Trịnh Toàn lo sợ sang hàng quân Nguyễn. Trịnh Toàn lo sợ, đến hỏi ý của Trịnh Căn. Trịnh Căn dụ Trịnh Toàn về kinh. Toàn nghe theo; khi về đến nơi Trịnh Tạc cùng tay chân thêu dệt cho Trịnh Toàn tội mưu phản, rồi tống giam vào ngục[2][3]. Sau đó ông sai Hoàng Nghĩa GiaoPhan Kiêm Toàn đến Nghệ An giúp đỡ Trịnh Căn trấn giữ nơi này.

Chiến tranh với họ Nguyễn

Bấy giờ chiến tranh Trịnh - Nguyễn đã ở thời kì khốc liệt với việc quân Nguyễn bắc tiến, giành được bảy huyện phía nam sông Lam, uy hiếp mạnh mẽ đối với Bắc Hà. Tháng 6 năm 1658, tên quan lang Công Cẩn ở sách Trọng Hợp làm phản, hợp tác với chúa Nguyễn, nhanh chóng bị đánh dẹp[3]. Hai bên giữ thế giằng co trong suốt hai năm 1658, 1659[3][6].

Sau một số trận giằng co, quân Nguyễn cũng phải hưu chiến vì không đủ lực lượng tổng tấn công ra bắc. Nguyễn Hữu Dật sai người ra bắc câu kết với các lực lượng phản Trịnh như Phạm Hữu Lễ ở Sơn Tây, họ Mạc ở Cao Bằng, họ Vũ ở Tuyên Quang (Chúa Bầu). Tuy nhiên hai bên dùng dằng, ỷ lại vào nhau. Trịnh Tạc phát giác việc Hữu Lễ mưu phản nhưng không cầm quân chinh phạt vì làm như vậy sẽ làm kinh động vua Lê và dân chúng quanh kinh kỳ, tạo thời cơ cho các lực lượng Mạc, Vũ và Nguyễn tấn công sẽ càng nguy hiểm hơn. Ông dùng mưu dụ và giết chết Phạm Hữu Lễ. Các cánh Vũ, Mạc vốn có toan tính riêng chứ không thực lòng muốn giúp Nguyễn, chỉ trông chờ quân Nguyễn đánh mạnh ra bắc mới hành động. Vì thế khi Hữu Lễ bị trừ rồi các cánh Mạc, Vũ không dám cử động, quân Nguyễn cũng hết trông đợi nội ứng.

Trịnh Tạc quyết định tăng thêm quân cho chiến trường phía nam. Nhờ có viện binh tiếp sức, đến cuối năm 1660, Trịnh Căn đại thắng quân Nguyễn, giành lại bảy huyện phía nam sông Lam và Bắc Bố Chính như cũ. Mùa đông năm tiếp theo, 1661, Trịnh Tạc kèm Lê Thần Tông đi Phù Lộ[7] thuộc Bắc Bố Chính, chuẩn bị tấn công quân Nguyễn. Lần này ông vẫn để Trịnh Căn làm Nguyên soái, Đào Quang Nhiêu làm Thống suất, ngoài ra còn có Lê Thì Hiến, Hoàng Nghĩa Giao làm đốc suất[2][3]... Cánh quân Trịnh tiên phong vượt sông Gianh đóng ở xã Phúc Tư. Quân Nguyễn chống đỡ có hiệu quả, giết tướng Trịnh là Hoan Trung. Đến tháng 3 ÂL, Trịnh Căn thua trận bỏ chạy, Trịnh Tạc lại đưa nhà vua trở về kinh sư, chấm dứt lần giao tranh thứ sáu của hai họ Trịnh - Nguyễn.

Sau 10 năm hưu chiến, vào giữa năm 1672, Trịnh Tạc lại đưa vua Lê Gia Tông đi đánh Nam Bố Chính, Trịnh Căn làm Nguyên soái thủy quân, thống lĩnh 3 vạn đi đánh, Trịnh Tạc và nhà vua đóng ở Bắc Bố Chính. Chúa Nguyễn sai con thứ tư là Hiệp làm Nguyên soái ra chống, có Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Mỹ Đức hỗ trợ, chúa Nguyễn đích thân dẫn đại quân tiếp ứng. Quân Trịnh áp sát lũy Trấn Ninh nhưng Nguyễn Hữu Dật dựa vào thành lũy kiên cố mà đẩy lui được quân Trịnh. Lúc đó đã vào mùa đông, thời tiết giá rét, Trịnh Căn lại bị bệnh nặng nên Trịnh Tạc phải lui quân. Sau trận đó, trong suốt hơn 100 năm, hai họ Trịnh Nguyễn không giao chiến thêm lần nào nữa[4].

Dẹp bắc

Họ Mạc từ đời Bình An vương Trịnh Tùng đã mất ngôi cai trị ở Thăng Long, nhờ vào sự can thiệp của nhà Minh để rút lên cát cứ tại Cao Bằng. Sau đó từ thời Thanh Đô vương Trịnh Tráng, họ Mạc nhiều lần quấy phá nhiều nơi ở Bắc Bộ, quân Trịnh nhiều lần đi dẹp nhưng chưa không diệt được. Năm 1661, nhân quân Trịnh bị quân Nguyễn đánh bại, họ Mạc lại nổi lên ở Thất Tuyền. Trịnh Tạc sai Trịnh KiềnPhùng Viết Tu dẫn quân chống, quân Mạc phải bỏ chạy. Đầu năm 1666, Mạc Kính Vũ đánh giết Thông quận công Lê Sĩ Trí, Trịnh Tạc sai Trịnh ĐốngLê Thì Hiến đánh Cao Bằng, Kính Vũ phải bỏ trốn[8].

Năm 1667, Trịnh Tạc dẫn quân đánh Cao Bằng, cử Trịnh Căn làm tổng chỉ huy cùng các tướng Đinh Văn Tả, Lê Thì Hiến, Lê Sĩ Triệt, Hồ Sĩ Dương tiến đánh Cao Bằng. Kính Vũ bỏ trốn sang nhà Thanh. Tháng 2 ÂL năm 1668, Trịnh Tạc rút quân về Thăng Long, để Đinh Văn Tả ở lại trấn giữ Thất Tuyên, giết các thủ lĩnh họ Mạc, còn lại đều tha.

Mạc Kính Vũ lại sang nương nhờ nhà ThanhTrung Quốc. Năm 1669, sứ nhà Thanh sang, ép vua Lê phải trả Cao Bằng cho họ Mạc. Các quan Đại Việt ra sức tranh nghị nhưng không được, giằng co nhau đến hơn 40 ngày. Trịnh Tạc sau đó nói rằng: "Thờ nước lớn phải cung kính theo mệnh lệnh", rồi tâu nhà vua hãy gượng mà làm theo. Vì thế họ Mạc lại được trở về Cao Bằng[8].

Lại nói về thế lực của chúa Bầu họ Vũ ở Tuyên Quang, vốn hơn 100 năm bán li khai với chính quyền Lê - Trịnh. Khi đó chúa Bầu Vũ Công ĐắcMa Phúc Trường có thù hằn với nhau, Công Đắc lo sợ bèn viết thư xin về triều, trả đất Tuyên Quang; nhưng giữa đường thì bị bọn trộm hạ sát, có lời đồn là do Ma Phúc Trường làm. Triều đình bắt giam Phúc Trường và phong cho con của Công Đắc là Vũ Công Tuấn lên thay trấn thủ Tuyên Quang (1669)[8]. Năm sau, con em Phúc Trường là Phúc Lan, Phúc Điện làm phản, Trịnh Tạc sai Lê Thì Hiến đi đánh, giết được Phúc Lan và buộc Phúc Điện phải chạy sang nhà Thanh, sau cũng bị giao trả lại và bị giết. Nhưng về sau Vũ Công Tuấn cũng không thần phục và thường đem quân quấy phá các vùng xung quanh.

Năm 1677, sau khi chiến tranh với họ Nguyễn chấm dứt, Trịnh Tạc lại sai Đinh Văn Tả đưa quân tấn công Cao Bằng. Trước kia Ngô Tam Quế phản nhà Thanh, Kính Vũ thần phục họ Ngô còn chính quyền Đại Việt không theo. Đến lúc đó Tam Quế sắp bị diệt, Kính Vũ cũng không được nhà Thanh ủng hộ nữa. Nhân đó chúa Trịnh mới cử quân tấn công. Tháng 8 ÂL, quân Lê - Trịnh hạ được Cao Bằng, Mạc Kính Vũ trốn sang Long châu; đến năm 1683 thì bị nhà Thanh giao trả cho Đại Việt. Từ đó chấm dứt việc họ Mạc cát cứ Cao Bằng.

Chính trị, xã hội

Tháng 9 ÂL năm 1658, vua Lê Thần Tông gia phong cho Trịnh Tạc làm Đại nguyên soái chưởng quốc chính Thượng sư Tây Vương[1][3].

Sau trận thắng quân Nguyễn năm 1660, Trịnh Tạc nhân danh vua Lê phong cho Trịnh Căn làm Khâm sai tiết chế các xứ thuỷ bộ chư dinh kiểm tổng chính bính Thái uý Nghi quốc công, mở phủ Lý Quốc. Với quyết định đó, coi như Trịnh Căn đã là người sẽ kế vị ngôi chúa. Mùa hạ năm 1661, chúa cho định lại về nghi chế triều phục từ hoàng hậu, hoàng tử, thân vương, đại thần khi vào chầu vua và chúa[2].

Tháng 9 ÂL năm 1662, vua Lê Thần Tông lâm bệnh nặng. Trịnh Tạc theo lời dụ của Thần Tông trước khi mất, lập hoàng trưởng tử Duy Vũ còn nhỏ tuổi làm Hoàng thái tử, truất hoàng thái tử hiện tại Duy Tào[9] làm dân thường. Không lâu sau nhà vua mất, thái tử nối ngôi, tức là Lê Huyền Tông[8].

Chiến tranh phía nam kết thúc, Trịnh Tạc chú tâm tới củng cố bộ máy theo lối chính quy. Ông quy định các văn thần phải thay phiên nhau vào ứng trực tại phủ chúa để làm việc, gọi là "nhập các". Dưới sự tham gia, cố vấn của tham tụng Phạm Công Trứ, một loạt chính sách mới về thuế khoá, ruộng đất được ban hành để giải quyết hậu quả chiến tranh. Đó là phép bình lệ, là phép "khoán đinh", làm sổ đinh nhất định một lần, mỗi làng quy định phải đóng bao nhiêu suất đinh, cứ như vậy hằng năm phải đóng theo số lượng đó, dù sinh thêm hay chết bớt người cũng không thay đổi.

Mùa thu năm 1662, chúa sai ban 47 điều giáo hóa thần dân trong nước, các ti phải làm biển viết rồi treo lên, mỗi lần họp làng đều phải có tiết mục đọc mấy giáo điều đó[8][10]. Về quan chế, trên 6 quan thượng thư giữ 6 Bộ có đặt thêm quan Tham tụng và quan Bồi tụng coi việc chính trị. Năm 1664, chúa đặt thêm Chưởng phủ sự và Thự phủ sự để coi việc binh chính. Bên cạnh triều đình của nhà vua là phủ liêu, nắm hết quyền lực trong nước[1][8]. Trịnh Tạc phải cấm các quan viên không được lập trang trại ở chỗ mình làm quan vì phần nhiều ủy quyền thế uy hiếp lấy ruộng đất của nhân dân, nuôi quân gian ác làm thủ hạ để quấy nhiễu lương dân, làm cho lắm nơi dân phải siêu tán. Như thế đỡ hại dân và giữ liêm cho quan.

Năm 1663, Trịnh Tạc lại ra sắc dụ cấm nhân dân theo đạo Gia Tô. Năm 1664, Trịnh Tạc ép nhà vua cho mình ưu đãi: vào chầu vua không phải lạy, tờ chương tấu không phải xưng tên, đặt chỗ ngồi ở bên trái chỗ ngồi của vua[8][10]. Sau đó còn ép vua lập con gái mình là Trịnh Thị Ngọc Áng làm hoàng hậu. Năm 1667, sau trận thắng họ Mạc, Trịnh Tạc tự gia phong làm Đại nguyên soái thượng sư thái phụ Tây vương. Tuy nhiên, cũng bắt đầu từ thời kỳ này, xuất hiện nạn "kiêu binh". Lính Thanh - Nghệ cậy có công lao trong chiến trận sinh ra kiêu ngạo, phóng túng, giết chết bồi tụng Nguyễn Quốc Trinh, cướp phá nhà tham tụng Phạm Công Trứ. Kinh thành bị náo loạn.

Năm 1671, vua Lê Huyền Tông mất, Trịnh Tạc lập hoàng đệ Duy Khoái từ nhỏ được nuôi dạy trong phủ chúa, lên nối ngôi, là Lê Gia Tông[8][10]. Bốn năm sau vua ấy cũng mất, ông đưa hoàng đệ Duy Hiệp lên nối ngôi, tức là Lê Hi Tông[8][10]. Bấy giờ vua Thần Tông có người con hoang là Vũ Lăng hầu Lê Duy Lễ lớn tuổi hơn Huyền Tông, bị nhà chúa ghét nên năm xưa không được lập làm thái tử; đến đây ông ta gian dâm với cung nữ trong sơn lăng là Đặng thị, cháu gái quan Tiến sĩ khoa Vĩnh Tộ thứ 10 là Đặng Phi Hiển, vì thế bị nhà chúa sai giết chết. Đặng Phi Hiển bị vu tội âm mưu giúp sức và chết trong ngục.

Năm 1665, chúa sai Tham tụng Phạm Công Trứ soạn sách Đại Việt sử ký toàn thư gồm 23 quyển chép từ Lê Thái Tổ đến Lê Thần Tông. Năm 1676, ông sai Hồ Sĩ Dương chép nối bộ Đại Việt sử ký toàn thư[1]. Năm 1681, lại sai Lê HiNguyễn Quý Đức chép sử tiếp từ Huyền Tông đến Gia Tông, gồm 13 năm.

Theo gương cha trước đây, để giúp con tiếp quản dần ngôi vị chúa khi mình đã cao tuổi, tháng 7 nǎm 1674, khi sắp bước sang tuổi 70, Trịnh Tạc xin vua Lê tiến phong cho Trịnh Căn làm Nguyên soái, tước Định Nam vương, nắm toàn quyền thay mình. Trịnh Căn tự xưng là Phó vương. Tháng 10 ÂL năm 1676, ông bổ dụng Nguyễn Mậu Tài, Hồ Sĩ Dương giữ công việc tham tụng[11]. Năm 1678, quy định lại lệ thi Hương, đặt trường thi ở nhiều vùng trong nước.

Năm 1682, Tham chính Thanh Hoa Nguyễn Văn Đương dâng sớ đàn hặc Tham tụng Nguyễn Mậu Tài. Tuy Mậu Tài chỉ phạm lỗi nhỏ, nhưng Trịnh Tạc muốn tỏ ra là người biết nghe lời nói thẳng, bèn bãi chức của ông ta, giáng làm Tả thị lang bộ Hộ, cất nhắc Văn Đương làm Hữu thị lang bộ Binh giữ việc Bồi tụng.

Tháng 8 năm đó (tức ngày 24 tháng 9), Trịnh Tạc qua đời, Định Nam Vương Trịnh Cǎn lên nối ngôi. Trịnh Tạc nắm quyền 25 nǎm, trải qua 4 đời vua: Lê Thần Tông, Lê Huyền Tông, Lê Gia TôngLê Hy Tông, hưởng thọ 77 tuổi, được tôn là Hoằng Tổ (弘祖), thụy là Thông Hiến (聰憲), tước Dương vương (陽王), lăng ở sách Vạn Lại[6].

Liên quan